Chiến dịch Kuril: Đòn quyết định từ biển của Hạm đội Thái Bình Dương

Nan Đắc Hữu Tình Nhân
Nan Đắc Hữu Tình Nhân
Phản hồi: 1

Nan Đắc Hữu Tình Nhân

Quan Thục Di
Thành viên BQT
Sau khi Đức Quốc xã đầu hàng và kết thúc chiến tranh ở châu Âu, khu vực Thái Bình Dương trở thành nơi duy nhất có các hoạt động quân sự trong Thế chiến thứ hai. Sau những năm dài chiến tranh, nền kinh tế Nhật Bản bị hủy hoại nghiêm trọng, nhưng vào năm 1945, họ vẫn sở hữu một đội quân vũ trang 7 triệu người, lực lượng không quân còn khả năng chiến đấu và một hạm đội mạnh mẽ.

Do đó không có gì đáng ngạc nhiên khi các hoạt động tấn công của lực lượng Mỹ-Anh ở Thái Bình Dương diễn ra rất chậm và đẫm máu. Gần 3 tháng, từ ngày 1/4 đến 23/6/1945, đội quân 500.000 người của lực lượng đồng minh (Mỹ, Anh, Canada, Úc và New Zealand), được hỗ trợ của 1.600 tàu chiến Mỹ, Anh và gần 2.000 máy bay chiến đấu vẫn không thể phá vỡ sự kháng cự của người Nhật ở Okinawa.

Trong trận này, phía Đồng minh đã tổn thất nặng nề với 75.000 người thiệt mạng, 38.000 người bị thương, thiệt hại hơn 100 máy bay ném bom, 36 tàu chiến bị chìm và khoảng 370 chiếc khác bị hư hại. Tại Hội nghị Yalta tháng 2/1945, Stalin đã phác thảo cho các đồng minh - Franklin Roosevelt và Winston Churchill - những điều kiện để Liên Xô tham gia cuộc chiến với đế quốc Nhật Bản 3 tháng sau khi chấm dứt chiến sự ở châu Âu.

1746844822586.png


Một trong số đó là thu hồi lại các vùng lãnh thổ bị mất sau chiến tranh Nga-Nhật 1904-1905: các căn cứ ở Port - Arthur (Đại Liên) và phần phía Nam Sakhalin và ngoài ra, chuyển đổi sang quyền tài phán của Liên Xô đối với quần đảo Kuril.

Hạm đội là một thành phần quan trọng để thành công​


Năm 1945, Hạm đội Thái Bình Dương dưới sự chỉ huy của Đô đốc Ivan Yumashev là lực lượng mạnh, với lực lượng gồm: 1 kỳ hạm (tàu khu trục lớn, tốc độ nhanh với ngư lôi và pháo hạm mạnh mẽ), 2 tàu tuần dương, 10 tàu khu trục, 19 tàu tuần tra, 78 tàu ngầm, 10 tàu rải ngư lôi, 52 tàu quét mìn và 250 tàu thuyền. Không quân hạm đội gồm có 1.508 máy bay: 164 máy bay ném bom, 170 máy bay thả ngư lôi, 243 cường kích, 665 tiêm kích, 266 máy bay trinh sát.

Đô đốc Nikolai Kuznetsov nhớ lại: "Tôi nhận được lệnh từ Stalin về trách nhiệm phối hợp các hành động của Hạm đội Thái Bình Dương và Đội tàu Amur với lực lượng lục quân. Việc chuẩn bị cho chiến dịch được bảo mật tối đa. Thậm chí nhiều chỉ huy cao cấp đã đến Viễn Đông dưới tên giả".

Ngày 9/8/1945, Hạm đội Thái Bình Dương trở thành lực lượng chính của Liên Xô trong vùng biển Nhật Bản. Nhiệm vụ bao gồm hỗ trợ hỏa lực "từ tất cả các cỡ" cho lục quân Liên Xô tiến vào vùng ven biển, đổ bộ tấn công, chế áp các nỗ lực của quân Nhật vận chuyển hàng hóa quân sự bằng đường biển, ngăn chặn các cuộc tấn công của Hải quân Nhật Bản vào bờ biển Liên Xô.

Tập đoàn quân số 2 mặt trận Viễn Đông cần phải vượt sông Amur. Địch thủ đã tạo ra các khu vực phòng thủ kiên cố mạnh mẽ trên bờ phía bên kia. Không thể vượt qua dọc theo bờ phía Liên Xô và đổ bộ từ bên sườn. Đội tàu Amur, bao gồm 170 tàu chiến, đã tham gia vượt sông. Ngày 12/8/1945, trận chiến ác liệt diễn ra tại ngã ba quan trọng đường sắt và đường bộ - thành phố Jiamusi trên sông Sungari, một nhánh của Amur. Vị trí được phòng thủ từ hướng đất liền, vì vậy ban chỉ huy quyết định tấn công từ hướng sông.

1746844861852.png


Người Nhật thả trôi những chiếc bè gài mìn và một số lượng lớn khúc gỗ để ngăn chặn bước tiến của những chiếc tàu bọc thép Liên Xô. Khi đó tàu pháo trên sông của hạm đội Amur với lượng giãn nước 1.000 tấn đẩy dẹp chướng ngại vật và khai hỏa từ tất cả các pháo hạm. Pháo 120 mm và 85 mm chế áp các vị trí kẻ địch, hỏa lực pháo 37 mm phá vỡ các khúc gỗ, để tàu bọc thép có thể di chuyển.

Tấn công vào các cảng Triều Tiên và đánh chiếm Seishin​


Cuộc tấn công nhanh chóng của quân đội Liên Xô khu vực Trans-Baikal (từ phía Tây Bắc) và tập đoàn quân số 2 mặt trận Viễn Đông (từ phía Bắc) vào sâu trong lãnh thổ Trung Quốc đã tạo ra mối đe dọa thực sự bao vây đội quân Quan Đông. Tuy nhiên, địch vẫn có đường rút lui đến các cảng Triều Tiên để sơ tán đến các đảo Nhật Bản. Để ngăn chặn, Đô đốc Yumashev, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, quyết định tấn công vào các cảng ở Yuki (nay là Ungi hoặc Sonbon) và Racine (nay là Rason hoặc Najin)... Hơn 50 máy bay, 15 tàu chiến và 800 lính thủy đánh bộ của Hạm đội Thái Bình Dương tham gia vào chiến dịch chiếm giữ các cảng Yuki và Racine.

Tình báo Nhật Bản đã tìm cách truyền thông tin trên về trụ sở, nhưng họ không tin người Nga sẽ tấn công với một lực lượng tương đối nhỏ như vậy. Rạng sáng 11-8, các máy bay ném bom Hạm đội Thái Bình Dương thả hàng trăm quả bom cực mạnh vào tàu chiến và kho nhiên liệu đạn dược tại cảng Yuki.

Làn sóng máy bay ném bom thứ hai áp đảo các tiểu đoàn phòng thủ ven biển. Một toán biệt kích của lính thủy đánh bộ chiếm giữ đầu cầu cho cuộc đổ bộ của lực lượng đổ bộ chính. Đến 15h ngày 11/8, cảng đã được chiếm giữ. Vào buổi tối cùng ngày, Racine cũng thất thủ. Quân Nhật vội vã rút lui về Seishin. Hội đồng quân sự Hạm đội Thái Bình Dương quyết định phải được chiếm Seishin ngay lập tức. Sáng sớm 13/8/1945, khoảng 100 tàu Liên Xô các loại đã tiếp cận bên ngoài Seishin. Từ trên không, nhóm tàu tấn công được 300 máy bay chiến đấu hỗ trợ.

1746844891013.png


7 giờ sáng 13/8, đội tàu ngư lôi đột nhập vào khu vực cảng. Cuộc tấn công ngư lôi làm tê liệt giao thông của quân Nhật và đơn vị phòng thủ trên bến tàu. Đơn vị đổ bộ tiền duyên (181 người) bước vào trận chiến không cân sức với lực lượng đồn trú khu vực kiên cố Seisin để đảm bảo an toàn cho cuộc đổ bộ của 5.000 quân thuộc Lữ đoàn lính thủy đánh bộ số 13 Hạm đội Thái Bình Dương.

Ngày 16/8, quân Liên Xô đã chiếm giữ thành phố. Sau khi chiếm được Seishin, ngày 21/8, lực lượng tấn công Hạm đội Thái Bình Dương, gồm 2.000 người cùng với pháo binh đã cập cảng Genzan (nay là Wonsan). Lần này, 6.000 quân đồn trú Nhật Bản đầu hàng.

Đổ bộ lên quần đảo Kuril​


Từ năm 1940, nhận ra tầm quan trọng chiến lược, Nhật Bản bắt đầu xây dựng các công sự mạnh mẽ với công trình ngầm, căn cứ hải quân, sân bay, bố trí lực lượng phòng không mạnh mẽ. Chính từ Kuril vào ngày 26/11/1941, phi đội Nhật Bản đã bắt đầu chiến dịch Trân Châu Cảng.

Ngày 15/8/1945, nguyên soái Vasilevsky, chỉ huy quân đội Liên Xô ở Viễn Đông, ra lệnh mở chiến dịch chiếm giữ quần đảo Kuril. Khi đó, quân đồn trú Nhật Bản gồm 8.500 người với 100 khẩu pháo, 60 xe tăng và một trung đoàn phòng không.

1746844926166.png


Lực lượng đổ bộ Liên Xô bao gồm 2 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn chống tăng và 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Hạm đội Thái Bình Dương. Tổng cộng 8.300 người, 118 pháo, cối, và 500 súng máy. Các lực lượng hải quân tham gia có 64 tàu (2 tàu tuần tra, 4 tàu quét mìn, 1 tàu nhỏ, 8 tàu tuần tra, 2 tàu ngư lôi, một xà lan nổi, tàu đổ bộ). 78 máy bay hỗ trợ từ trên không. Cuộc đổ bộ do thuyền trưởng cấp 1 Ponomarev và thiếu tướng Dyakov chỉ huy.

Sáng sớm 18/8/1945, nhóm đổ bộ Liên Xô tiếp cận hòn đảo. Trong ngày đầu tiên của chiến dịch, 7 tàu đổ bộ, 1 tàu tuần tra và 2 tàu nhỏ đã bị mất do hỏa lực của địch và thêm 8 tàu bị hư hại. Máy bay Nhật từ sân bay địa phương đã cố gắng tấn công tàu tuần tra Kirov, mặc dù không thành công. Và trên chính hòn đảo, người Nhật phát động một số cuộc phản công mạnh mẽ, thậm chí đã sử dụng xe tăng và bị bắn cháy gần hết.

Trận chiến kéo dài đến ngày 23/8, chỉ huy nhóm quân đội Nhật Bản chấp nhận các điều khoản đầu hàng do phía Liên Xô đưa ra. Thiệt hại của quân đội Liên Xô trong các trận đánh ở Shumshu lên tới 1.567 người, trong đó 416 người thiệt mạng. Người Nhật mất 1.018 người, trong đó 300 người chết.

Ngày 24/8, các lực lượng Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu đổ bộ lên các hòn đảo còn lại của quần đảo Kuril. Tổng cộng, khoảng 50.000 quân nhân Nhật bị bắt làm tù binh tại quần đảo Kuril.
 


Đăng nhập một lần thảo luận tẹt ga
Top