ThanhDat
Intern Writer
Gần đây, nhiều người đặt câu hỏi vì sao vấn đề “than Mông Cổ sẽ được chuyển sang Nhật Bản và Hàn Quốc” từng được bàn luận rất nhiều trước đây lại bỗng dưng biến mất. Có ý kiến cho rằng Mỹ đứng sau mọi chuyện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những suy đoán này không có cơ sở. Tham vọng của Mỹ từng muốn khai thác vai trò địa chính trị của Mông Cổ nhưng đã sớm dừng lại, và phần lớn sản lượng than của Mông Cổ năm ngoái vẫn được chuyển sang Trung Quốc.
Năm 2024, Mông Cổ xuất khẩu 83,76 triệu tấn than, tăng hơn 14,14 triệu tấn so với năm 2023, tức tăng trên 20 phần trăm. Trong đó có 79,51 triệu tấn là than đá và 74,9 triệu tấn là than bitum, đưa nước này vào nhóm nhà xuất khẩu năng lượng đáng chú ý. Quan trọng hơn cả, gần 84 triệu tấn than này không có tấn nào sang Nhật Bản hay Hàn Quốc. Toàn bộ đều được nhập khẩu vào Trung Quốc thông qua các cảng biên giới.
Hệ thống cửa khẩu của Nội Mông đóng vai trò quyết định. Cảng Ganqimaodu, điểm nhập than lớn nhất giữa hai nước, ghi nhận hơn 40 triệu tấn hàng hóa thông quan trong năm 2024, riêng than đạt 38,61 triệu tấn, tăng hơn 10 phần trăm so với năm trước. Cảng Ceke ghi nhận trên 24 triệu tấn, mức cao nhất trong 32 năm. Cộng thêm các cửa khẩu như Erenhot và Mandula, lượng hàng hóa qua biên giới Nội Mông vượt 120 triệu tấn, tất cả hướng về thị trường Trung Quốc.
Đường vận chuyển qua Siberia rất hạn chế, còn việc đi đến bờ biển Viễn Đông là chặng đường dài, chi phí cao và hạ tầng yếu, khó thể thực hiện vận chuyển quy mô lớn. Điều này khiến các tuyến xuất khẩu tài nguyên của Mông Cổ phụ thuộc gần như hoàn toàn vào Trung Quốc.
Cảng Thiên Tân là ví dụ rõ nhất. Đây là “cửa ngõ ra biển” được xây dựng phục vụ riêng cho hàng hóa Mông Cổ, xử lý tới 90 phần trăm lượng hàng quá cảnh của nước này. Than muốn sang Nhật Bản hay Hàn Quốc cũng phải đi qua đây trước khi lên tàu, khiến chi phí đội lên và phụ thuộc hoàn toàn vào mạng lưới logistics Trung Quốc. Trong giai đoạn COVID-19, nhiều container của Mông Cổ từng bị mắc kẹt tại Thiên Tân, khiến họ hiểu rõ mức độ rủi ro.
Số liệu càng chứng minh Mông Cổ không có lý do tách khỏi Trung Quốc. Năm 2024, thương mại song phương đạt 18,62 tỷ đô la Mỹ (tương đương khoảng 465.5 nghìn tỷ VNĐ), tăng 10 phần trăm. Trong chín tháng đầu 2023, 72,3 phần trăm kim ngạch ngoại thương của Mông Cổ đến từ Trung Quốc, trong đó phần lớn là than. Thậm chí, 99,5 phần trăm kim ngạch xuất khẩu vàng cũng sang Trung Quốc.
Ngược lại, Mỹ từng hứa viện trợ 120 triệu đô la Mỹ (tương đương khoảng 3 nghìn tỷ VNĐ), nhưng đến năm 2023, kim ngạch thương mại Mỹ - Mông Cổ chỉ chiếm chưa đến 3 phần trăm. Khi đặt lên bàn cân giữa đơn hàng thực tế và các cam kết mơ hồ, lựa chọn trở nên rõ ràng.
Mông Cổ từ đó nhận ra thực tế. Họ không chỉ xuất toàn bộ than sang Trung Quốc, mà tổng thống Mông Cổ còn sang Bắc Kinh dự hội nghị thượng đỉnh Trung Nga Mông, tuyên bố làm sâu sắc thêm quan hệ ba bên. Ngoài thương mại, Mông Cổ còn nhận hỗ trợ về sinh thái, điển hình như quần thể gấu Gobi tăng gấp đôi nhờ hỗ trợ kỹ thuật từ Trung Quốc, hay nguồn cây giống cũng được nhập từ Trung Quốc.
Mối quan hệ này dựa trên lợi ích thiết thực. Trong khi Mỹ đưa ra nhiều lời hứa chưa thành hiện thực, Trung Quốc lại xây dựng hệ thống cửa khẩu thông minh. Tại Ganqimaodu, hệ thống vận chuyển AGV tự động có thể hoàn tất thủ tục hải quan trong 10 giây, xử lý hơn 3,2 triệu tấn than mỗi năm. Đây là yếu tố thực chất giúp Mông Cổ duy trì ổn định kinh tế. Nếu dựa vào Mỹ, họ không thể xuất khẩu than và toàn bộ nền kinh tế có thể gặp khủng hoảng.
Câu trả lời nằm ở con số 83,76 triệu tấn than năm 2024. Khi lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu, mọi tính toán địa chính trị đều phải nhường chỗ. Mông Cổ đã chứng minh rằng duy trì quan hệ ổn định với Trung Quốc là con đường an toàn nhất để phát triển. (Sohu)
Năm 2024, Mông Cổ xuất khẩu 83,76 triệu tấn than, tăng hơn 14,14 triệu tấn so với năm 2023, tức tăng trên 20 phần trăm. Trong đó có 79,51 triệu tấn là than đá và 74,9 triệu tấn là than bitum, đưa nước này vào nhóm nhà xuất khẩu năng lượng đáng chú ý. Quan trọng hơn cả, gần 84 triệu tấn than này không có tấn nào sang Nhật Bản hay Hàn Quốc. Toàn bộ đều được nhập khẩu vào Trung Quốc thông qua các cảng biên giới.
Hệ thống cửa khẩu của Nội Mông đóng vai trò quyết định. Cảng Ganqimaodu, điểm nhập than lớn nhất giữa hai nước, ghi nhận hơn 40 triệu tấn hàng hóa thông quan trong năm 2024, riêng than đạt 38,61 triệu tấn, tăng hơn 10 phần trăm so với năm trước. Cảng Ceke ghi nhận trên 24 triệu tấn, mức cao nhất trong 32 năm. Cộng thêm các cửa khẩu như Erenhot và Mandula, lượng hàng hóa qua biên giới Nội Mông vượt 120 triệu tấn, tất cả hướng về thị trường Trung Quốc.
Lý do khiến Mông Cổ không thể hướng ra Nhật Bản và Hàn Quốc
Một số người thắc mắc vì sao Mông Cổ từng nhắc đến hợp tác năng lượng với Nhật Bản và Hàn Quốc, thậm chí đàm phán về đất hiếm với Mỹ nhưng rồi lại im ắng. Nguyên nhân nằm ở điều kiện địa lý: Mông Cổ là quốc gia không giáp biển. Than hay đất hiếm đều phải vận chuyển qua Nga hoặc Trung Quốc.Đường vận chuyển qua Siberia rất hạn chế, còn việc đi đến bờ biển Viễn Đông là chặng đường dài, chi phí cao và hạ tầng yếu, khó thể thực hiện vận chuyển quy mô lớn. Điều này khiến các tuyến xuất khẩu tài nguyên của Mông Cổ phụ thuộc gần như hoàn toàn vào Trung Quốc.
Cảng Thiên Tân là ví dụ rõ nhất. Đây là “cửa ngõ ra biển” được xây dựng phục vụ riêng cho hàng hóa Mông Cổ, xử lý tới 90 phần trăm lượng hàng quá cảnh của nước này. Than muốn sang Nhật Bản hay Hàn Quốc cũng phải đi qua đây trước khi lên tàu, khiến chi phí đội lên và phụ thuộc hoàn toàn vào mạng lưới logistics Trung Quốc. Trong giai đoạn COVID-19, nhiều container của Mông Cổ từng bị mắc kẹt tại Thiên Tân, khiến họ hiểu rõ mức độ rủi ro.
Số liệu càng chứng minh Mông Cổ không có lý do tách khỏi Trung Quốc. Năm 2024, thương mại song phương đạt 18,62 tỷ đô la Mỹ (tương đương khoảng 465.5 nghìn tỷ VNĐ), tăng 10 phần trăm. Trong chín tháng đầu 2023, 72,3 phần trăm kim ngạch ngoại thương của Mông Cổ đến từ Trung Quốc, trong đó phần lớn là than. Thậm chí, 99,5 phần trăm kim ngạch xuất khẩu vàng cũng sang Trung Quốc.
Ngược lại, Mỹ từng hứa viện trợ 120 triệu đô la Mỹ (tương đương khoảng 3 nghìn tỷ VNĐ), nhưng đến năm 2023, kim ngạch thương mại Mỹ - Mông Cổ chỉ chiếm chưa đến 3 phần trăm. Khi đặt lên bàn cân giữa đơn hàng thực tế và các cam kết mơ hồ, lựa chọn trở nên rõ ràng.
Vì sao Mông Cổ không còn “dao động” như trước
Những động thái trước đây của Mông Cổ phần lớn bị chi phối bởi chính quyền Biden, vốn muốn biến nước này thành “hàng xóm thứ ba” và khai thác hợp tác đất hiếm. Điều này khiến Mông Cổ có thời điểm muốn cân bằng giữa các cường quốc. Tuy nhiên, sau khi Trump lên nắm quyền, các kế hoạch này bị gạt bỏ. Chính giới Mỹ chủ động thay đổi, còn Nhật Bản và Hàn Quốc lại càng không có khả năng đầu tư vào than Mông Cổ.
Mông Cổ từ đó nhận ra thực tế. Họ không chỉ xuất toàn bộ than sang Trung Quốc, mà tổng thống Mông Cổ còn sang Bắc Kinh dự hội nghị thượng đỉnh Trung Nga Mông, tuyên bố làm sâu sắc thêm quan hệ ba bên. Ngoài thương mại, Mông Cổ còn nhận hỗ trợ về sinh thái, điển hình như quần thể gấu Gobi tăng gấp đôi nhờ hỗ trợ kỹ thuật từ Trung Quốc, hay nguồn cây giống cũng được nhập từ Trung Quốc.
Mối quan hệ này dựa trên lợi ích thiết thực. Trong khi Mỹ đưa ra nhiều lời hứa chưa thành hiện thực, Trung Quốc lại xây dựng hệ thống cửa khẩu thông minh. Tại Ganqimaodu, hệ thống vận chuyển AGV tự động có thể hoàn tất thủ tục hải quan trong 10 giây, xử lý hơn 3,2 triệu tấn than mỗi năm. Đây là yếu tố thực chất giúp Mông Cổ duy trì ổn định kinh tế. Nếu dựa vào Mỹ, họ không thể xuất khẩu than và toàn bộ nền kinh tế có thể gặp khủng hoảng.
Câu trả lời nằm ở con số 83,76 triệu tấn than năm 2024. Khi lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu, mọi tính toán địa chính trị đều phải nhường chỗ. Mông Cổ đã chứng minh rằng duy trì quan hệ ổn định với Trung Quốc là con đường an toàn nhất để phát triển. (Sohu)