Trung Đào
Writer
Thuở Tam Quốc phân tranh, thiên hạ chia ba, anh hùng nổi lên như mây, kẻ trí mưu tựa biển. Ấy là thời đại mà tài trí và lòng người quyết định hưng vong xã tắc. Trong cơn gió bụi ấy, có một bậc kỳ nhân, lông hạc khăn sa, cầm quạt lông vũ, giữa trời mây cuộn mà luận chuyện thiên hạ. Người ấy chính là Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, Thừa tướng nước Thục. Người đời ca tụng ông là “Ngọa Long xuất thế, định càn khôn trong một túi”, mưu lược hơn người, trung tâm vì nước. Song dù thánh trí như ông, cũng có khi sai lầm, cũng có hai điều thất bại, khiến giang sơn Thục Hán dần suy, lòng người than tiếc.
Hai thất bại ấy, một là thả kẻ gian, dung dưỡng phản thần Dương Nghi, hai là giết oan tướng trung, khiến Ngụy Diên uổng mạng. Một người nên bị trừ mà được tha, một người nên được giữ mà bị diệt, lưỡng lầm ấy, như rơi hai quân cờ sinh tử trong bàn trận lớn, khiến đại thế Thục Hán chuyển sang suy tàn.
Dương Nghi, vốn theo chúa Lưu Bị từ thuở khai quốc, được trọng dụng vì văn tài mưu lược. Nhưng kẻ này tâm cơ hiểm độc, ngoài mặt cung kính, trong lòng phản trắc, thường gièm pha đồng liêu, mưu quyền soán chức. Gia Cát Lượng trọng tài mà nhẹ xét tâm, cho hắn nắm giữ việc lớn triều đình, chẳng hay tai họa đã ngấm ngầm bén rễ trong cung trung.
Ngụy Diên, tự Văn Trường, là danh tướng trấn Hán Trung, thân dũng như hổ, trung can với Thục. Lưu Bị từng khen rằng: “Diên khả phó trọng nhậm, trấn biên vi cột trụ.” Song vì tính khí cương trực, lời nói không uốn lưỡi, nên kết oán với Dương Nghi và bọn tiểu nhân trong triều. Gia Cát Lượng nghe lời gièm, sinh nghi lòng trung, từ đó đối đãi lạnh nhạt, khiến tướng hiền oán hận mà chưa từng dám trái mệnh.
Năm Kiến Hưng thứ mười hai (năm 234), Khổng Minh bắc phạt Ngụy, binh đến Ngũ Trượng Nguyên, thế như sấm sét. Đang khi binh khí chưa mòn, mưu chưa hết, thì bệnh nặng, sức tàn. Trên giường lều tranh, ông chỉ triệu Dương Nghi mà giao kế rút quân, chẳng truyền lời gì với Ngụy Diên. Ấy chính là gốc loạn sau này. Khi Thừa tướng tạ thế, Dương Nghi mưu kế nắm quyền, lập tức gièm Ngụy Diên làm phản, phao tin y muốn hàng Tào. Diên cả giận, khởi quân minh oan, song cô thế ít người. Dương Nghi sai Mã Đại phục kích, Diên thua trận, bị chém đầu giữa đường, máu nhuộm đất Ngũ Trượng.
Dương Nghi tưởng công lớn, đắc chí, tự phụ sẽ kế vị Khổng Minh. Nào ngờ Lưu Thiện nghe lời Lý Phúc, Triệu Vân, xét rõ lòng phản, bèn giáng chức Nghi làm thường dân. Dương Nghi uất hận, viết thư mắng triều đình, rồi thắt cổ mà chết, thân bại danh liệt. Thiên hạ nghe tin, đều rằng: “Thừa tướng tri nhân bất minh, họa tự lòng nghi mà khởi.”
Than ôi! Nếu Khổng Minh sớm trừ Dương Nghi, giữ lấy Ngụy Diên, thì Thục Hán há đến nỗi binh suy tướng tử, thế yếu lòng rời? Xưa Lưu Bị chẳng nghe can, vẫn dùng Diên giữ Hán Trung hơn mười năm, biên cương vững chắc, Tào binh chẳng dám xâm. Khi Thừa tướng dùng Mã Tốc giữ Nhai Đình, một sai lầm khiến mất cứ điểm, giá như giao cho Diên, há để Thục Hán tổn thất đến thế?
Ngẫm lại, Khổng Minh tuy trí tuệ siêu quần, “xuất sư bất hối”, nhưng cũng không tránh khỏi chỗ mờ trong việc xét người. Một niệm sai lầm, hai mệnh anh hùng, khiến cơ nghiệp Thục suy, lòng người tán. Lịch sử sang trang, tro bụi phủ mờ, song lời cảnh tỉnh ấy vẫn vang:
Kẻ làm minh chủ, phải biết trọng người trung, trừ kẻ gian, để cơ nghiệp muôn đời không đổ vỡ trong tay chính mình.
Hai thất bại ấy, một là thả kẻ gian, dung dưỡng phản thần Dương Nghi, hai là giết oan tướng trung, khiến Ngụy Diên uổng mạng. Một người nên bị trừ mà được tha, một người nên được giữ mà bị diệt, lưỡng lầm ấy, như rơi hai quân cờ sinh tử trong bàn trận lớn, khiến đại thế Thục Hán chuyển sang suy tàn.
Dương Nghi, vốn theo chúa Lưu Bị từ thuở khai quốc, được trọng dụng vì văn tài mưu lược. Nhưng kẻ này tâm cơ hiểm độc, ngoài mặt cung kính, trong lòng phản trắc, thường gièm pha đồng liêu, mưu quyền soán chức. Gia Cát Lượng trọng tài mà nhẹ xét tâm, cho hắn nắm giữ việc lớn triều đình, chẳng hay tai họa đã ngấm ngầm bén rễ trong cung trung.
Ngụy Diên, tự Văn Trường, là danh tướng trấn Hán Trung, thân dũng như hổ, trung can với Thục. Lưu Bị từng khen rằng: “Diên khả phó trọng nhậm, trấn biên vi cột trụ.” Song vì tính khí cương trực, lời nói không uốn lưỡi, nên kết oán với Dương Nghi và bọn tiểu nhân trong triều. Gia Cát Lượng nghe lời gièm, sinh nghi lòng trung, từ đó đối đãi lạnh nhạt, khiến tướng hiền oán hận mà chưa từng dám trái mệnh.
Năm Kiến Hưng thứ mười hai (năm 234), Khổng Minh bắc phạt Ngụy, binh đến Ngũ Trượng Nguyên, thế như sấm sét. Đang khi binh khí chưa mòn, mưu chưa hết, thì bệnh nặng, sức tàn. Trên giường lều tranh, ông chỉ triệu Dương Nghi mà giao kế rút quân, chẳng truyền lời gì với Ngụy Diên. Ấy chính là gốc loạn sau này. Khi Thừa tướng tạ thế, Dương Nghi mưu kế nắm quyền, lập tức gièm Ngụy Diên làm phản, phao tin y muốn hàng Tào. Diên cả giận, khởi quân minh oan, song cô thế ít người. Dương Nghi sai Mã Đại phục kích, Diên thua trận, bị chém đầu giữa đường, máu nhuộm đất Ngũ Trượng.
Dương Nghi tưởng công lớn, đắc chí, tự phụ sẽ kế vị Khổng Minh. Nào ngờ Lưu Thiện nghe lời Lý Phúc, Triệu Vân, xét rõ lòng phản, bèn giáng chức Nghi làm thường dân. Dương Nghi uất hận, viết thư mắng triều đình, rồi thắt cổ mà chết, thân bại danh liệt. Thiên hạ nghe tin, đều rằng: “Thừa tướng tri nhân bất minh, họa tự lòng nghi mà khởi.”
Than ôi! Nếu Khổng Minh sớm trừ Dương Nghi, giữ lấy Ngụy Diên, thì Thục Hán há đến nỗi binh suy tướng tử, thế yếu lòng rời? Xưa Lưu Bị chẳng nghe can, vẫn dùng Diên giữ Hán Trung hơn mười năm, biên cương vững chắc, Tào binh chẳng dám xâm. Khi Thừa tướng dùng Mã Tốc giữ Nhai Đình, một sai lầm khiến mất cứ điểm, giá như giao cho Diên, há để Thục Hán tổn thất đến thế?
Ngẫm lại, Khổng Minh tuy trí tuệ siêu quần, “xuất sư bất hối”, nhưng cũng không tránh khỏi chỗ mờ trong việc xét người. Một niệm sai lầm, hai mệnh anh hùng, khiến cơ nghiệp Thục suy, lòng người tán. Lịch sử sang trang, tro bụi phủ mờ, song lời cảnh tỉnh ấy vẫn vang:
Kẻ làm minh chủ, phải biết trọng người trung, trừ kẻ gian, để cơ nghiệp muôn đời không đổ vỡ trong tay chính mình.