Mạnh Quân
Writer
Trong thời Tam Quốc, tài năng “biết người và dùng người” của Tào Tháo được xem như một môn nghệ thuật. Người đời có câu “dụng nhân như dụng mộc”, nghĩa là biết phát huy đúng sở trường của mỗi người, và chính điều ấy đã giúp ông tạo dựng nên cơ nghiệp vững mạnh giữa thời loạn. Tuy nhiên, như ai cũng biết, nhân tài thì khó tìm, mà nhân tài đáng tin cậy lại càng hiếm hơn.
Vậy Tào Tháo đã dựa vào tiêu chí nào để xác định xem ai vừa có năng lực vừa có thể giao phó trọng trách?
Nhìn chung, Tào Tháo quan sát và đánh giá người dưới ba khía cạnh lớn. Nếu một người đáp ứng được một trong ba điều này, ông nhất định sẽ trọng dụng.
1. Người có thể giữ bình tĩnh khi đối mặt với đại sự
Trương Liêu là ví dụ điển hình nhất. Trong năm vị danh tướng của Tào Tháo, Trương Liêu là người được ông yêu mến và tin tưởng nhất. Thậm chí về sau, địa vị của Trương Liêu còn vượt cả Vu Cấm, trở thành vị tướng hàng đầu trong “Ngũ tử lương tướng”.
Trận chiến nổi tiếng nhất của Trương Liêu chính là Hợp Phì (Xiaoyaojin). Khi ấy, Tào Tháo đích thân gửi thư giao cho Trương Liêu chỉ huy chống lại Tôn Quyền, đồng thời ra lệnh cho Lý Điển và các tướng khác trấn thủ thành. Vì sao Tào Tháo lại đặc biệt giao trọng trách này cho Trương Liêu? Bởi ông biết, trong những thời khắc sinh tử, chỉ có một người thật sự bình tĩnh, sáng suốt và quyết đoán mới có thể xoay chuyển cục diện.
Tính cách điềm tĩnh ấy của Trương Liêu không phải tự nhiên mà có. Năm Kiến An thứ 13 (208), khi chỉ huy một đội quân mới thành lập, vì tinh thần binh sĩ chưa ổn định, nội bộ phát sinh bạo loạn vào ban đêm. Giữa tình thế rối ren, Trương Liêu không hề hoảng sợ, lập tức ra lệnh: “Ai dám hỗn loạn, chém!” – rồi bình tĩnh cho người điều tra. Kết quả, ông nhanh chóng dẹp yên loạn quân mà không gây thêm thương vong.
Sau vụ ấy, Tào Tháo nhận ra Trương Liêu có tố chất đặc biệt – “đại tướng chi phong” – nên về sau, trong chiến dịch Hợp Phì, ông mới tin tưởng giao toàn quyền chỉ huy. Quả nhiên, Trương Liêu nắm bắt chính xác điểm yếu của quân Ngô, bất ngờ xuất kích, suýt đoạt đầu Tôn Quyền, khiến thiên hạ chấn động.
2. Người công chính, hành sự không thiên vị - dù đối với quyền quý hay thân tộc
Điển hình là Dương Bội (Dương Bôi). Ông từng là tù nhân trong ngục của Tào Tháo, nhưng được trọng dụng vì tính cương trực, không vị nể, dám giết cả khách của Tào Hồng, anh họ Tào Tháo chỉ vì phạm pháp.
Mọi người đều biết Tào Hồng là người từng cứu mạng Tào Tháo, được ông hết sức tín nhiệm. Nhưng Dương Bội không vì vậy mà nể nang, ông xử lý đúng luật, “pháp bất vị thân”. Hành động ấy khiến nhiều người cho rằng ông tự chuốc họa vào thân, song Tào Tháo lại vô cùng khâm phục, chẳng những không trị tội, mà còn để ông tiếp tục đảm nhiệm chức vụ.
Về sau, do va chạm với cấp trên, Dương Bội bị hạ ngục, thậm chí bị cùm xiềng. Khi ấy Tào Tháo chưa hay biết. Đến lúc ông dời đại bản doanh về Diệp Thành, nhiều thuộc hạ sinh kiêu, kỷ cương lỏng lẻo. Vừa nghe tin, Tào Tháo lập tức giải cứu Dương Bội khỏi ngục, thăng chức ông làm Kinh Triệu Doãn, nói với các quan rằng:
“Người này, đáng được trọng vọng.”
Tin ấy khiến cả Diệp Thành chấn động. Những kẻ từng ỷ thế làm càn đều sợ hãi, tự răn nhau: “Người từng dám giết kẻ của Tào Hồng, nay được trọng dụng – ai dám coi thường pháp luật nữa?”
3. Người có thể bình tĩnh đối mặt khi bị hiểu lầm
Người này chính là Cao Nhược (Cao Rou).
Cao Nhược vốn có họ hàng với Viên Thiệu, sau khi Viên bị diệt, ông cùng thân tộc quy thuận Tào Tháo. Không ngờ sau đó, có người họ hàng của ông phản bội, khiến Tào Tháo nổi giận, nghi ngờ cả Cao Nhược. Dù không tìm thấy chứng cứ, Tào Tháo vẫn không hoàn toàn tin tưởng, bèn bổ nhiệm ông làm Lịch sử Ám sát sứ, một chức vị cực kỳ nguy hiểm – chỉ cần sai sót nhỏ cũng có thể mất đầu.
Thế nhưng Cao Nhược không oán thán, không biện minh. Ông vẫn chuyên tâm làm việc, giữ thái độ điềm đạm, công tư phân minh. Một đêm, Tào Tháo đi tuần, bắt gặp Cao Nhược đang ngủ gục mà tay vẫn ôm bản tấu. Ông hỏi thuộc hạ: “Ai kia?” – đáp rằng: “Cao Nhược.” Tào Tháo gật đầu, không nói thêm gì. Từ đó, ông bắt đầu trọng dụng Cao Nhược như tri kỷ. Cao Nhược vẫn một lòng tận tụy, không vì bị nghi ngờ mà thay đổi thái độ. Đó chính là “tâm như bàn thạch, không sợ hiểu lầm” – phẩm chất mà Tào Tháo đặc biệt coi trọng.
Từ ba ví dụ trên: Trương Liêu, Dương Bội, Cao Nhược có thể thấy rằng khi dùng người, Tào Tháo không chỉ nhìn vào tài năng, mà còn đặc biệt chú trọng tính cách, sự điềm tĩnh và lòng trung thực.
Chính nhờ con mắt tinh tường ấy, ông mới quy tụ được những người “đáng tin cậy” nhất thời loạn, đặt nền móng cho đại nghiệp của Ngụy quốc sau này.
Vậy Tào Tháo đã dựa vào tiêu chí nào để xác định xem ai vừa có năng lực vừa có thể giao phó trọng trách?
Nhìn chung, Tào Tháo quan sát và đánh giá người dưới ba khía cạnh lớn. Nếu một người đáp ứng được một trong ba điều này, ông nhất định sẽ trọng dụng.
1. Người có thể giữ bình tĩnh khi đối mặt với đại sự
Trương Liêu là ví dụ điển hình nhất. Trong năm vị danh tướng của Tào Tháo, Trương Liêu là người được ông yêu mến và tin tưởng nhất. Thậm chí về sau, địa vị của Trương Liêu còn vượt cả Vu Cấm, trở thành vị tướng hàng đầu trong “Ngũ tử lương tướng”.
Trận chiến nổi tiếng nhất của Trương Liêu chính là Hợp Phì (Xiaoyaojin). Khi ấy, Tào Tháo đích thân gửi thư giao cho Trương Liêu chỉ huy chống lại Tôn Quyền, đồng thời ra lệnh cho Lý Điển và các tướng khác trấn thủ thành. Vì sao Tào Tháo lại đặc biệt giao trọng trách này cho Trương Liêu? Bởi ông biết, trong những thời khắc sinh tử, chỉ có một người thật sự bình tĩnh, sáng suốt và quyết đoán mới có thể xoay chuyển cục diện.
Tính cách điềm tĩnh ấy của Trương Liêu không phải tự nhiên mà có. Năm Kiến An thứ 13 (208), khi chỉ huy một đội quân mới thành lập, vì tinh thần binh sĩ chưa ổn định, nội bộ phát sinh bạo loạn vào ban đêm. Giữa tình thế rối ren, Trương Liêu không hề hoảng sợ, lập tức ra lệnh: “Ai dám hỗn loạn, chém!” – rồi bình tĩnh cho người điều tra. Kết quả, ông nhanh chóng dẹp yên loạn quân mà không gây thêm thương vong.
Sau vụ ấy, Tào Tháo nhận ra Trương Liêu có tố chất đặc biệt – “đại tướng chi phong” – nên về sau, trong chiến dịch Hợp Phì, ông mới tin tưởng giao toàn quyền chỉ huy. Quả nhiên, Trương Liêu nắm bắt chính xác điểm yếu của quân Ngô, bất ngờ xuất kích, suýt đoạt đầu Tôn Quyền, khiến thiên hạ chấn động.
2. Người công chính, hành sự không thiên vị - dù đối với quyền quý hay thân tộc
Điển hình là Dương Bội (Dương Bôi). Ông từng là tù nhân trong ngục của Tào Tháo, nhưng được trọng dụng vì tính cương trực, không vị nể, dám giết cả khách của Tào Hồng, anh họ Tào Tháo chỉ vì phạm pháp.
Mọi người đều biết Tào Hồng là người từng cứu mạng Tào Tháo, được ông hết sức tín nhiệm. Nhưng Dương Bội không vì vậy mà nể nang, ông xử lý đúng luật, “pháp bất vị thân”. Hành động ấy khiến nhiều người cho rằng ông tự chuốc họa vào thân, song Tào Tháo lại vô cùng khâm phục, chẳng những không trị tội, mà còn để ông tiếp tục đảm nhiệm chức vụ.
Về sau, do va chạm với cấp trên, Dương Bội bị hạ ngục, thậm chí bị cùm xiềng. Khi ấy Tào Tháo chưa hay biết. Đến lúc ông dời đại bản doanh về Diệp Thành, nhiều thuộc hạ sinh kiêu, kỷ cương lỏng lẻo. Vừa nghe tin, Tào Tháo lập tức giải cứu Dương Bội khỏi ngục, thăng chức ông làm Kinh Triệu Doãn, nói với các quan rằng:
“Người này, đáng được trọng vọng.”
Tin ấy khiến cả Diệp Thành chấn động. Những kẻ từng ỷ thế làm càn đều sợ hãi, tự răn nhau: “Người từng dám giết kẻ của Tào Hồng, nay được trọng dụng – ai dám coi thường pháp luật nữa?”
3. Người có thể bình tĩnh đối mặt khi bị hiểu lầm
Người này chính là Cao Nhược (Cao Rou).
Cao Nhược vốn có họ hàng với Viên Thiệu, sau khi Viên bị diệt, ông cùng thân tộc quy thuận Tào Tháo. Không ngờ sau đó, có người họ hàng của ông phản bội, khiến Tào Tháo nổi giận, nghi ngờ cả Cao Nhược. Dù không tìm thấy chứng cứ, Tào Tháo vẫn không hoàn toàn tin tưởng, bèn bổ nhiệm ông làm Lịch sử Ám sát sứ, một chức vị cực kỳ nguy hiểm – chỉ cần sai sót nhỏ cũng có thể mất đầu.
Thế nhưng Cao Nhược không oán thán, không biện minh. Ông vẫn chuyên tâm làm việc, giữ thái độ điềm đạm, công tư phân minh. Một đêm, Tào Tháo đi tuần, bắt gặp Cao Nhược đang ngủ gục mà tay vẫn ôm bản tấu. Ông hỏi thuộc hạ: “Ai kia?” – đáp rằng: “Cao Nhược.” Tào Tháo gật đầu, không nói thêm gì. Từ đó, ông bắt đầu trọng dụng Cao Nhược như tri kỷ. Cao Nhược vẫn một lòng tận tụy, không vì bị nghi ngờ mà thay đổi thái độ. Đó chính là “tâm như bàn thạch, không sợ hiểu lầm” – phẩm chất mà Tào Tháo đặc biệt coi trọng.
Từ ba ví dụ trên: Trương Liêu, Dương Bội, Cao Nhược có thể thấy rằng khi dùng người, Tào Tháo không chỉ nhìn vào tài năng, mà còn đặc biệt chú trọng tính cách, sự điềm tĩnh và lòng trung thực.
Chính nhờ con mắt tinh tường ấy, ông mới quy tụ được những người “đáng tin cậy” nhất thời loạn, đặt nền móng cho đại nghiệp của Ngụy quốc sau này.